Khúc thứ Ba
HOÀ BÌNH CHIẾN TRANH - ĐÀN ÔNG & ĐÀN BÀ
HOÀ BÌNH CHIẾN TRANH - ĐÀN ÔNG & ĐÀN BÀ
“…Thập kỉ Sáu mươi
Thập kỉ Bảy mươi
đêm dài như tháng
tháng bằng cả năm
đàn bà sợ tuần rụng trứng
đàn ông uổng phí tinh trùng…”
NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ CHỒNG TRONG NHÀ
Sống với nhau nửa tháng
chồng vào Vệ quốc
xa cách chín năm trời vợ
ngót ba mươi
chiến thắng Điện Biên
anh xuất ngũ về quê
người lính nào chẳng
muốn “nghỉ phép” suốt đời như thế
thoả sức đắp bù
“ăn giả bữa” cả đêm
“ăn vã ăn vụng” suốt ngày
có khi mong trời mưa
muốn cả làng đi vắng
vợ
chồng nhìn trộm nhau
xấu hổ…
có chồng trong
nhà tháng trước tháng này tháng nữa
hát thầm cười thầm khóc
thầm rên thầm
đêm nào cũng quấn lấy
chồng
ngày nào cũng được chồng
“yêu”
vú cương tựa mít non
hông mỏi như nhổ mạ
rưng rưng nghẹn ngào nhớ
nhớ quên quên
đựng gạo bằng sàng rửa
rau bằng rá…
hơn hớn lúa chiêm tháng
ba
rạo rực đê mê đón mưa
chờ sấm
gió heo mật trèo ngọn
mía
cuối thu trời lạnh se se
nắng hanh vàng rực ngọn
cây
da dẻ
đàn bà nứt căng đỏ lựng
anh “tặc lưỡi”
dựng cày
buộc trâu
kéo rào dấp ngõ
lỡ buổi làm đồng!…
thị thơm muỗm ngọt mơ
chua
khoai mầm ứa mật, giá đỗ
nứt bồ
le le nấu gừng, rượu tăm
“hạ thổ”…
xanh
mướt “phân chó…thài lài…”
hả hê “mưa nhàu cỏ bợ”
(1)
dẻo trâu lò mật
dai sức bò cày
hăng như ngựa kéo
vợ chồng đầy dầu dài bấc
giếng đá ngọt lành dây
gàu săn chắc
anh cày
em cấy vui thú trăm năm…
tóc dài óng mượt bồ kết
lá chanh
ngát dịu bạc hà hương
nhu hoa bưởi
đằm duyên nhuận sắc
lắm khi chị giật thót
nghi
ngại
chính
mình…
mặc kệ chồng những điều
to tát
chị quảy rơm gánh rạ
ngăn gió lùa chuồng lợn
cũi trâu
vá buồm
se thừng
phơi chão
tát nước lòng thuyền
dây lèo bánh lái đá ngầm
bãi cạn đã có chồng lo
không để bếp nguội lửa
tàn tro
chị chỉ biết làm vợ làm
dâu làm mẹ
hương hoa trên ban thờ
gạo muối sẵn trong thưng
chỉ đủ vợ đủ chồng ngần
ấy tháng năm
kịp có ba con đủ cả gái
trai
nhà lợp rạ ba gian vườn
ba sào tươi tốt
không
nắng hắt gió lùa mưa dột
như đàn kiến nhao nhác
trước mưa giông
gió lệch hướng bợt da,
mưa muối chanh xót dạ
mùa thu năm ấy qua nhanh
gió bấc
lạnh ngắt tràn về
mưa
phùn giấu nước vào mái rơm
không
bay lay phay chẳng ngưng thành giọt
khói
bếp bay là ngọn cau chẳng chịu lên trời
- tổng động viên !
- tất cả cho tiền tuyến
!
chồng chị
chồng những người đàn bà
trong làng ngoài phố
chia tay vợ con cha mẹ
họ hàng
chia tay những năm tháng
chóng vánh hòa bình
hai lần
ra trận cách nhau mười mấy năm
bỏ lại
những người ruột thịt đông gấp mấy lần
đàn ông từ nay khát da
thịt vợ
phụ nữ thiếu cơm thèm
vải
nhịn đàn ông
đói cháu con…
---------
(1) Gái được hơi trai
như thài lài gặp cứt chó/ Trai phải
hơi vợ như cỏ bợ bị trời mưa” (tục ngữ).
“NGẢ LƯNG” GIỮA HAI CUỘC
CHIẾN
Với nhiều người Việt
từng sống
đang sống
Thế kỉ Hai mươi dài
cực dài
chỉ
Thập niên Sáu mươi đã lâu như cả thế kỉ yên bình từng trôi qua lặng lẽ
Tây Ban cầm sáu dây
cây đàn huyền diệu của
văn hoá văn minh Nhân loại
không dễ độc tấu mười
chương khúc của Thập kỉ Sáu mươi
ta thửa
đàn mười hai dây ghép bằng sắt gang tre nứa
chỉnh
đàn đến không thể căng thêm
để dây
khỏi đứt tung
âm thanh không lạc
thấp hơn nửa cung cao
hơn nửa nốt
năm tháng - hàng phím
lõm!…
sau chín năm kháng chiến
những người lính Trung
đoàn Thủ Đô, Đoàn quân Tây Tiến
tuổi ba lăm bốn mươi
sung
sức giữa thời trận mạc
đủ sức
đuổi giặc đến mũi Cà Mau
bịt
chặt cảng Đà Nẵng, Sài Gòn
không
để giặc ngoại xâm đổ bộ lên đất liền lần nữa
những đại đoàn chủ lực
Quân Tiên Phong, Chiến
Thắng, Đồng Bằng…
bừng bừng nhuệ khí
hạ trại ở Đồng Lê
án binh quanh Nhật Lệ
dừng cuộc trường chinh
trước Khu Phi quân sự Vĩnh Linh
những người lính từng
trải im lặng nhìn nhau
đất nước phải chia đôi?
không thể hiểu
không sao hiểu nổi!
Vĩ tuyến Mười Bảy
Vĩ
tuyến
Mười
Bảy
!!!
???… (1)
sau ba ngàn ngày chiến
trận
những dàn đại bác nguội
dần
vỏ đạn, xác ca nô đợi
hoá thân
thành
nồi đồng điếu chảo gang
trăm
vạn chiến binh náo nức thay nhau nghỉ phép
bao cô gái quê xốn xang
ngóng trông bộ đội về làng
mơn mởn con gái tỉnh
Đông xứ Đoài đồng dâu bãi mía
vừa kịp dậy thì
những cô hàng xén hàng
tấm Hải Dương,
Bắc Ninh, Nho Quan, Phủ Lý
chải mượt tóc bồng lá
bún
mơ làm con dâu Cụ Hồ -
vợ vệ quốc quân
từ Tây Bắc, Sầm Nưa,
Mường Lát
khoác áo trường chinh về
lại kinh thành
những sĩ quan không cấp
bậc quân hàm
oai
hùng giầy đen
áo đại
cán Tôn Trung Sơn bốn túi
lọt mắt
xanh tiểu thư Hàng Bạc, Đồng Xuân
chiến binh Bắc
Bắc, Thủ Đô, Tu Vũ (2)
"hành quân"
ngang dọc giấc mơ thôn nữ
khăn nâu đồng tiền khăn
đen mỏ quạ
Từ Sơn, Lục Ngạn, Canh
Diễn, Nhật Tân…
mẹ chồng sinh thêm con
út con thêm
nàng dâu hai năm ba lần
vượt cạn
làng quê phố thị râm ran
pháo cưới
những
cô đỡ trẻ các bà mụ vườn
bao năm
nhàn nhã chân tê tay dại
ngày
ngóng người mời đêm chờ kẻ gọi
bây giờ
tất bật đi sớm về khuya
“từ nay bom đạn hết rồi
con thuyền xuôi ngược
thảnh thơi giữa dòng…” (3)
trẻ trồng na già giồng
bạch đàn
xẻ đá nung vôi đắp lò
nướng gạch
“Thẻ Nhận ruộng” trường
tồn cùng phim ảnh
thành báu vật trong các
viện bảo tàng
- kỉ niệm một thời
gửi tới mai sau (?)
ruộng
mới nhận vừa chia bị gom vào hợp tác
“chiêm mùa cờ đỏ ven đê
sớm hôm tiếng trống đi
về trong thôn” (4)
chỉ vài trăm người biết:
bộ đội công binh sắp mở
đường mòn dọc Trường Sơn
chỉ mấy chục người hay:
những
tàu không số đã âm thầm rẽ sóng biển Đông
vạch Đường Hồ Chí Minh
trên biển
cây dương cầm cũ dưới
tán đại ngàn
vang lên từng chùm hợp
âm kết thành giai điệu
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
viết những nốt nhạc mở đầu
hành khúc "Giải phóng miền Nam"
- lại có chiến tranh !
- chiến tranh sắp nổ ra
!
những người làm mẹ cha
giao thừa năm ấy vẫn
không ngờ cuộc chiến khốc liệt đã gần
Tết ấy với bao cuộc đời
đã là Tết cuối
“cả nước lên đường
xao xuyến bờ tre từng
hồi trống giục” (5)
con trai lớn nhập ngũ
bố hoãn phục viên
cỏ thao trường chưa kịp
hồi sinh
lại dập
nát dưới đế giày lính mới
chồng thôi làm nhà ngói
vợ bán đong thóc trữ sắn
khoai
con gái vội lấy chồng
gấp gáp đẻ con trai
cả những người dân
thường cũng hiểu
chiến tranh lần này dằng
dai khốc liệt
vợ chồng
li tán gia đình nát tan
chục
triệu người Việt Nam mang thương tích suốt đời
mấy triệu người sẽ chết…
------------------------
(1) Năm 1954, sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam giải phóng
cả nước, nhưng lại kí
hiệp định Giơnevơ chia đôi lãnh thổ (!)
(2) Các trung đoàn thuộc
Đại đoàn 308
(3) Trích ca khúc của
Văn Chung
(4) Trích thơ Tố Hữu
(5) Trích thơ Chính Hữu.
NHỮNG BÀO THAI KHÔNG THỂ
TƯỢNG HÌNH
Ngay cả trong chiến
tranh
đóng quân trong
rừng
lính khoẻ mạnh như đi an
dưỡng
cá suối
thịt rừng bột trứng lương khô
gạo nếp
nấu chè đậu xanh ngâm giá
chiến
dịch chưa mở màn
binh
lính "nhàn cư" chỉ huy nhàn nhã
không sợ thồ balô nặng
chĩu “xẻ dọc Trường Sơn”
không sợ hùm
beo rắn rết
những cái chết đủ hình
đủ dạng đeo bám rình rập đợi chờ...
những
người lính đàn ông con trai mạnh mẽ
mười
chín, ba mươi sinh lực căng tràn
phu
khuân vác Bến Bính, Phà Đen
chân
sào thuyền buôn
vai nổi u hằn thừng chão kéo thuyền
xuôi ngược sông Chu sông
Mã
lực điền Quảng Bình
tráng đinh Thanh -
Nghệ
trai Cầu Vồng Yên Thế
thợ sơn tràng Quảng Nam…
lưng săn ngực nở vai đầy
đùi ếch chân dê tay càng
cua biển
mụn trứng cá dày như
kiến
không e
ngại bất kể điều gì
chỉ khổ
sở
dư thừa
năng - lượng - đàn –
ông
Thập kỉ Sáu mươi
đã có mấy người biết
khái niệm đồng tính đồng giới
lính trẻ chưa được ai
dạy cách “làm sướng mình”
chưa
phải kiểm thảo không bị cản ngăn
cứ ngỡ
đã phát kiến ra điều kì diệu!
rừng chuối
dừng chân vài đêm
rừng tre
mắc võng mấy ngày đợi hành quân tiếp
mưa đầu mùa
măng tre mập mạp tua tủa
mọc lên
năm bảy chồi non chen
chúc nẩy từ thân chuối mẹ
ông già Xêđăng cười khe
khe:
-
chưa có khi mô như rứa!
quẳng balô xuống cỏ
dựng súng gốc cây
nằm lăn trên lá khô đá
tảng
duỗi chân dạng tay
ăn dăm bảy bát cơm măng
vầu mắm ruốc
lính phởn phơ
sức lực ứ đầy...
những chiếc võng lép kẹp
vỏ đậu
nhẹ bẫng tàu dừa
những chiếc võng nặng
trĩu căng phồng
đố tục giảng thanh
chuyện tiếu lâm chuyện
phòng the chăn gối
râm ran rôm rả rúc rích
tiếng cười
những người lính mình
trần như nhộng
nằm ôm nhau ngủ chung
võng suốt đêm
võng một hóa võng đôi
trĩu
nặng dềnh lên dập xuống như thuyền
dây
võng níu căng nghiêng cây tróc vỏ
sên vắt
thức giấc tìm mồi rào rạo lá khô
dưới những tấm võng
có từng vũng kiến nâu
kiến gió…
- không vậy
suốt đêm chúng em mất
ngủ
- không làm thế
có khi
phải tìm vô bản, tụt lại dọc đường
vào
rừng phát rẫy lấy vợ Vân Kiều
bám xe
nhảy tàu đào ngũ về quê…
sau những cơn vật vã
trăn trở bất an
được “giải tỏa”
lính ngủ ngon ngáy pho
pho như sấm
gương
mặt dãn chùng thảnh thơi mãn nguyện
nụ cười
bí hiểm đậu khóe môi
bao bạn bè đồng đội
chỉ vậy
rồi thôi
mang đủ
nỗi khát thèm xuống Đất
hương
vị Đào Tiên chỉ có trên…Trời
tình yêu tình dục
nghe kể rồi tưởng tượng
chưa nếm náp bằng lưỡi
bằng môi
không sờ nắn bằng tay…
không “sấp trên ngửa
dưới”
bạn tôi em tôi
như gà trống hoa như vịt
mái tơ
“vội vàng” chết trận
- riêng điều ấy mười
mươi có thật!
chôn vội lấp vàng những
thi thể con trai
chưa từng cọ sát da thịt
phụ nữ mỡ màu ấm nóng
chưa nhìn thấy ngồn ngộn
thân hình đàn bà
không bị
lá chuối áo tơi nón mê che khuất
những "đứa con -
một - nửa"
không thể tượng hình
từ
trăm ngàn người lính
thành
máu thịt sên vắt kiến gió kiến nâu
hoá đom
đóm lập loè bay
hoang
dại rừng xanh
hun hút vực sâu…
Thập kỉ Sáu mươi Thập kỉ
Bảy mươi
đêm dài như tháng
tháng bằng cả năm
đàn bà sợ tuần rụng
trứng
đàn ông uổng phí tinh
trùng…
NGOẠI TÌNH
Đêm đêm ngày ngày
khi những người lính trở
trăn quẫy đạp
đứt dây
rách toạc
võng đơn võng
đôi
ướt nhẹp lá khô
bu đen kiến nâu kiến
gió…
ở bao miền quê
cả triệu cô gái tươi tắn
ngoan hiền
giật mình hốt hoảng lo
sợ
- lần “có tội” đầu tiên (1)
những người đàn bà rất
mực Đàn Bà
ba mươi hai tuổi bốn
mươi mốt tuổi
vú căng bưởi đào quệt
vôi đợi Tết
mông
đùi bốc lửa
rừng rực đống rấm (2) cháy lụi gộc tre… …
từng tế bào trong xương
chuyển hóa
mùa xuân thứ hai của
phận đàn bà
chồng còn sống đã như
"gái góa"
hồi xuân
tái xuân
da thịt nà nuột tươi
nhuần
nhấm
nháp ngốn ngấu chính mình
những
người đàn bà sung mãn
đêm ăn
“cơm chay” ngày tu “nước nhạt”
hồi xuân
tái xuân
bữa tiệc cuối của kiếp
đàn bà
cơm
canh chẳng người đụng đũa
xôi khô
chè vữa
những cô dì thím mợ
trong họ ngoài làng
cơm độn sắn khoai ăn còn
lửng dạ
dáng vóc phổng phao chân
tay chắc nịch
loãng mùi chồng
nhạt hơi hướng đàn ông
“ruộng đồng của
ta thẳng cánh cò bay
chồng cày vợ cấy thỏa
chí từ nay…” (2)
đã từ ngàn xưa "con
trâu đi bừa..."
“ruộng cạn đồng sâu”
muôn đời "vợ cấy..."
câu ca dao của thuở
thanh bình
học trò nghe thầy bình
giảng say sưa
mãi kiếm tìm
không thấy…
những người đàn bà cày
ngầm ruộng chiêm
nước lút đuôi trâu
nước ngập bụng em
loang đỏ !...(3)
quanh năm lầm lụi bới
khoai mót lúa
cò đậu ngọn cong vạc bám
cành mềm
lợn tơ động đực chê cám
phá chuồng
xệ lườn vịt bầu ướt mào
gà mái
trâu nái cà lưng bóng
nhờn cành duối
bò sữa
cọ hông nhẵn thín gốc si
dửng
dưng nhìn cỏ mật lá mía bẹ ngô …
chỉ mấy
ngày trời
gặp gỡ
làm quen
yêu
cưới “tập đoàn”
người
ra trận hẹn về người hậu phương hứa đợi
mười
chín năm con gái
làm đàn
bà hai đêm
biết
dăm ba điều vừa lạ vừa quen
còn bao
“chuyện hay ho” chưa biết
khế chín dở ngập
răng vài miếng
rượu nếp cái hoa vàng
nhấm ướt góc môi
thực tập làm đàn bà hai
đêm
lại sống đằng đẵng như
thời con gái
chín năm
mười tháng
bốn bữa
bảy giờ…
làm sao có thể yên ổn
thanh thản nhẹ nhõm như xưa
cái thời chanh mọng cốm
mềm không trở lại!
ngực bung cơm mới
đùi giật hông rung
vú nở tuột khuy
mông cồn dãn vải
khỏa thân tắm ao bèo
da thịt ngứa ran nóng
rẫy dấu răng vệt môi
cháy bỏng mười ngón tay
ngày nào chồng vuốt ve xoa nắn
đêm giá lạnh
chẳng cứ gì đêm lạnh
chạm giường chiếu sởn da
gà
đụng gối chăn giá ngắt
chị kéo bung màn
thổi đèn tắt phụt
giật tung dải rút dứt vỡ khuy cài…
chăn bông nặng cuộn tròn
đè thân vồng căng cứng
giường
lún
giường nghiêng
giường gãy
giường sập
trong
mơ
mơ như thật
bủn rủn rã rời
thâm chăn
ướt chiếu…
những giấc mơ đê mê
khoái lạc lắm tội nhiều công
thăng hoa thành Súy Vân
mê dại tựa Thị Mầu…
thành cây chuối mật
nghiêng ngả trong vườn
bẹ lá tươi xanh ruột âm
ỷ cháy…
những người đàn bà khát
thèm ân ái
ngoài da mọc gai trong
lòng bén lửa
ong bay khắp dạ kiến
nhằn trong xương
lan toả
xạ hương
rạo rực
tê mê những vùng nhạy cảm
cơ thể giao động run rẩy
căng mặt trống bỏng dây
đàn
gánh nước nửa đêm tưới
đầm vườn nhãn
xay vài thúng thóc giã
mấy mẹt ngô
đủ sức “đốn ngã” dăm bác
thợ nề vài ông thợ mộc
nhưng trong làng ngoài
xã nào có đàn ông
làm gì có thợ xây phó
cối
kiếm đâu ra đàn ông đáng
mặt đàn ông
khoẻ mạnh
tự do
ở lại hậu phương
- những người vẹo lưng lệch vai
đầu to chân ngắn tay dài
ưa tuyên truyền thích giảng
rao đạo đức
bị trói buộc bởi bao
danh xưng chức phận
may mắn “lọt sàng xuống
nia” vài mống thực sự đàn ông
bị giành giật tranh nhau
“độc chiếm”
hồn vía đêm ngày chịu
giam cầm
thân
xác sớm hôm bị ngấu nghiến
có chồng hai đêm
chị chỉ là “đàn bà tập sự”
đua cấy ở xã thi cày
trong thôn
nửa đêm vùng dậy tát
nước gầu sòng
mặt đỏ
nhừ
tu
nước vối
say
như
nốc rượu
tứ thời kìm nén quanh
năm khát thèm
vụ chiêm lại mùa
năm Tỵ đến năm Thân
"thực tập đàn
bà" hai đêm
"đàn
bà chính thức"
mười mấy năm "thất nghiệp"
khép hờ cửa buồng
lách vạt ngô già nấp bụi
mía non
thịt da ngún lửa tự đốt
tự thiêu
trưa ôm
bao thóc
chiều ghì cột nhà
quặp chăn
ép gối…
mười năm
mười lăm năm
hai mươi
mốt năm…
vẫn chỉ
sống như thời con gái
nếu chị không “hư hỏng”
phản bội
ngoại
tình…
chân đê gió mát trăng
thanh
ngồn ngộn rơm phơi
rạ chưa kịp bó
phát cuồng hai kẻ “gian
phu dâm phụ”
quấn chặt nhau như rắn
tựa mèo
lửa cháy không buông
nước dâng chẳng bỏ
lăn lộn giẫy đạp cấu cào
gẫy đậu dập vừng chìm
bèo nát cỏ
hồng hộc thở
hổn hển rên…
nửa đêm về sáng bãi vắng
đồng xa
trong làng ngoài xã
không ai hay biết
nhưng có một bóng người
nước mắt rơi lã chã
những giọt lệ vô hình
người sống không nhìn thấy
chồng của người đàn bà
ngoại tình đã về đến quê hương
ngày đậu ngọn muỗm sau
miếu
đêm đánh đu cành thị
cổng chùa
ba năm
rồi hồn anh theo mây gió
lồng bồng trong nắng
lướt thướt trong mưa…
----------
(1) Người ở nông thôn
miền Bắc gọi hiện tượng kinh nguyệt là “có tội”
(2) Trích ca khúc của
Văn Chung
(3) Máu loang đỏ nước
ruộng: do đỉa cắn, do vấp chân vào gốc rạ lưỡi cày
cũng có thể do người đàn
bà ấy đang có kinh nguyệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét