10. kẻ
hủy diệt
Tưởng nhớ Chính uỷ Đặng Tính, Chính uỷ Vũ Quang Bình,
Tưởng nhớ Chính uỷ Đặng Tính, Chính uỷ Vũ Quang Bình,
Cục trưởng Nguyễn Thúc Yêm, Nhạc sĩ Trịnh Quý,
Thiếu uý Bảng,
hy sinh ngày 4 - 3 1973 tại Nước Lào
hy sinh ngày 4 - 3 1973 tại Nước Lào
Có những công nhân Mỹ
phản đối chiến tranh
tháo ngòi nổ nhiều
bom mìn trước khi
chuyển đến
Đông Dương
nhưng trái mìn nổ
dưới xe các anh không ở trong số ấy!
ngòi nổ hẹn giờ kíp
nổ điện kiểu mới kiên gan đợi chờ
khối thuốc súng nén chặt lầm lì chờ tia lửa cháy
những quả mìn dấu
mình dưới đất
đủ sức xé vụn con voi
đầu đàn
làm bật gốc mảng rừng
nguyên thuỷ
đất Lào nghĩa tình
như đất Mẹ
giấu những đoàn xe
những đoàn quân
dưới
tán rừng xanh
mưa Trường Sơn xoá đi
trận bom lửa napan
nước lũ cuốn những
trái mìn vào suối vào sông
dập tắt tia lửa ma
tàng hình trong vỏ thép
nhưng trái mìn nổ
dưới xe các anh không trong số ấy!
sức huỷ diệt kinh
hoàng nấp trong vỏ thép
nhẩm đếm từng giây…
bữa ấy xe các anh có
thể tránh được
khối thuốc nổ
chết người
Nhạc sỹ Trịnh Quý sẽ
viết thêm nhiều bài hát mới
Chính uỷ Đặng Tính
lại ghi nhật ký, làm thơ
Bác sỹ Tố mong đợi
Thượng tá Vũ Quang Bình
dong xe về Phủ
Lý …
đi cùng đường với các
anh có những đoàn xe
chở đầy lính trẻ
những đoàn xe chất
đầy thư, súng đạn, máu khô
những đoàn xe chở trẻ
em Lào sang Việt Nam học chữ…
sớm
muộn
quả mìn ấy
phát nổ!
ăn chung bánh lương
khô
nuốt khói chung một
nhúm thuốc lào
khối thuốc nổ cùng
sắt thépgiết người
các anh tranh phần
tất cả
Trường Sơn chuyển
rung rừng Lào thay lá
những binh đoàn thiện
chiến đợi lệnh về xuôi …
Ngày 26 - 11 -1973
11. một
thời cổ tích
Một thời nào đã xa
xưa
bom như sấm
đạn như mưa quanh
mình
rừng sâu tướp lá gãy
cành
núi cao nở ngọn suối
xanh đổi màu
sàn sàn một lứa với
nhau
như thóc liền ruộng
tựa cau cùng buồng
sinh khác tháng học
khác trường
nói năng khác giọng,
quê hương khác vùng
một loạt bom - mộ nằm
cùng
mộtmtrận đánh - cúng
giỗ chung một ngày!...
niềm vui toàn thắng
như say
tai ù pháo hội mắt
cay lệ m, mừng
chưa quên cơm nắm muối
vừng
chưa quên chiếu đất
vỗng rừng chăn đơn
bệnh xưa giờ có nặng
hơn
tai ù pháo hội mắt
cay lệ mừng
chưa quên cơm nắm
muối vừng
chưa quên chiếu đất
võng rừng chăn đơn
bệnh xưa giờ có nặng hơn
vết thương nhức buốt
mỗi cơn gió lùa?
mặc ai đắt bán rẻ mua
trái tim lính vẫn như
xưa nghĩa tình
một thời cả nước
chiến tranh
vợ người lỡ dở con
mình đơn côi
mẹ cha xiêu đứng vẹo
ngồi
hạ cằn khoai vụ, lũ
trôi mạ mùa
một thời nào đã xa
xưa
mà như nửa thực nửa
mơ
một thời
sẽ thành cổ tích muôn
đời
bà ru cháu ngủ
ạ ời… ngày xưa…
12. đừng
quên…
Bảy chú Lùn ngây dại
nhìn dấu hài trên đá
tìm từng sợi tóc lẫn
trong đệm lá
Bạch Tuyết theo hoàng
tử về lầu son
còn nhớ hang đá chốn
rừng sâu ?
lông ngỗng rải lối
mòn làm dấu
giếng Loa Thành ngàn
năm đợi ngọc Mỵ Châu
người đẹp lầu Tây nhớ
tiếng hát Trương Chi
lệ gieo vỡ chén
suối thượng nguồn
thầm thì với biển
bến đò ngang nghìn
xưa nhờ sóng hát với cây cầu
hầm tránh bom quanh
Hồ Gươm đã chìm vào đất
còn thương những
người hôn vội trong đạn bom
chưa biết tên nhau
không nhìn rõ mặt
mỗi lứa tơ vàng tướp
mấy nương dâu
bầu trời cao xanh nhớ
cánh diều lạc gió
vỉa quặng chìm trong
đất ngước nhìn
pho tượng đồng cao
ngất
cây bông ruộng hạn
thầm nhắc lá cờ
trước khi bay về Trời
hồn tử sĩ thành gió
lau mồ hôi trên trán cha
lay động giải khăn
của mẹ
người ở người đi dặn
dò lạc giọng giữa tiếng còi tàu
nhớ thương ai tóc héo
trên đầu
để anh tốt cau em
chịu đau mùa lúa
hết thương còn nhớ đỡ
tủi lòng nhau
nhiều khi giật mình
giữa đêm
hiện về bao gương mặt
lạ quen
người đang sống biết
có còn gặp lại
người không còn trên
đời chỉ gặp trong mơ
khóc chẳng thành
tiếng cười nói không lời
vẫn hiểu vẫn thương
tận cùng gan ruột
gặp trong mơ nói bằng
mắt ướt
đừng quên
đừng quên !...
13. gọi thầm trong đêm
Tặng Nguyễn Trọng Tạo
Tôi thương thành phố này
dù bạn chưa đến
không còn ở đây
tàu qua Đập Đá
sông Hương trăng sữa buồn
cam chịu
trôi xuôi buông
xuôi
không dậy sóng
dằng dặc những đoàn người rũ đất rẽ nước trồi lên
ngơ ngác
chẳng hiểu vì sao không được sống ?!…
Gọi thầm đêm
gọi thầm bạn
gọi thầm em
- người thiếu phụ không phải không thể không nỡ của mìn!
Hành quân đến đâu đánh trận ở đâu ngã xuống ở đâu
chúng mình không chọn lựa
bản thảo rơi vãi sau mỗi trận bom
yên bình
những người lính làm thơ chỉ biết làm thơ
làm chồng
làm bố
người lên trung du kẻ ra vùng mỏ
bạn cư ngụ Huế
tôi dạt vào Nam.
Thương nhớ khôn nguôi xứ Bắc cội rễ bao đời
những mảnh đồng nát hằn vết móng tay cậy cháy cơm khoai
chiếc niêu đất đựng núm rốn cuống nhau
cha vùi gốc tre gai
những cánh diều chưa nhả hết dây
toạc giấy gẫy
tre chòng chành ngược gió…
Dạ cổ hoài lang, Nam ai, Nam bằng
buồn như Ví dặm
ngậm ngùi Bèo dạt mây trôi
nhớ Bắc tôi tựa gốc sầu riêng
bạn ngồi mòn gốc đa thương Huế
văn liền mạch câu thơ nối nhịp
phương Nam phương Bắc nóng lạnh chẳng cùng mùa
kẻ trước người sau
bạn về Bắc
tôi làm sao xa lìa sông Đáy sông Châu đất lề quê thói !
Mai này
thỏa thuê gió bấc mưa phùn mắm cua nước vối
có những đêm áo nhàu khuy đứt
quặn lòng thắt dạ
nhớ thương nắng gió phương Nam…
14. chợ
quê
Phố nhỏ chợ phiên
càng nhỏ
lối đi hằn vết móng
trâu
lều quán tuềnh toàng
xiêu vẹo
thúng mủng quang gánh
vướng nhau
cải ngồng rễ chùm lấm
đất
tép riu tanh tách
trên sàng
lúa giống ao bằng đấu
gỗ
lá xoè vấn vít cuống
cam
có ông bán mâm đồng
cũ
có bà dắt nghé còn
tơ
chục quả trứng ngan
trên mẹt
dăm nải chuối ngự
trong bồ
cá mè lềnh phềnh
trong “ thúng “
thịt lợn “ say sắn “
vàng khè
đường mía “ lò trâu “
đen kịt
vải diềm bâu dệt cửi
tre
tiền cũ dằn sâu đáy
túi
bạc trăm cuộn giữa
bạc nghìn
mặc cả gọi là - thuận
miệng
chợ
quê ai cũng quen quen
họp nhanh chợ rã càng
nhanh
người bán người mua
lặng lẽ
phản thịt miếng ngon
thường ế
hàng sáo chỉ thừa gạo
thơm
người già ngồi nhai
cơm nắm
mấy cô cắm cúi vá
tiền
rượu ngô rót tràn
chén mộc
vuốt râu cười chếnh
choáng men
chiều xuống trời hun
hút gió
chợ tan mưa bụi trắng
đầu
trẻ con dắt nhau ra
ngõ
đợi bánh đa vừng mía
lau...
Hà Nam, 1997/ SG, 10 -1998
Hà Nam, 1997/ SG, 10 -1998
15.
trường huyện vùng chiêm
Nhớ về Trường Cấp III
Bình Lục ở Thập kỉ Sáu mươi, Thế kỉ Hai mươi
Quê ta đất mỏng nước
dày
đi chân thì ít bơi
tay lại nhiều
chiêm mùa hạt thóc
tong teo
cỏ năn bện chổi tre
pheo vặn thừng
đất cằn thấp cải lép
vừng
bùn non trát vách rạ
thưng lợp nhà
cứ gì tháng tám ngày
ba
- cơm khoai lửng dạ,
mắm cà quanh năm
bạn tôi áo cộc quần
thâm
lội đồng đi học nước
dầm áo tơi
tan trường, đứng bóng
mặt trời
lại cày cuốc, nhọ mặt
người chưa xong
giêng hai lúa đã hé
đòng
tôi từ Yên Đổ lội
sông tìm người
trăng non vàng nõn cỏ
tươi
cầm tay nhau, dại cả
mười ngón tay ...
đạn bom đã nổ quanh
đây
tàu xe nườm nượp chở
đầy tân binh
bao nhiêu con gái
trường mình
lặng thầm lên phố
chụp hình, lựa khăn...
chiến trường xa mặt
trận gần
thày tái ngũ, trò
tòng quân, lên đường
vắng hoe , lệch nửa
sân trường
hầm tre quanh lớp, mũ
rơm bên người
bạn bè tứ tán nơi nơi
người dạt xuống biển
kẻ dời lên nương
có người biệt xứ tha hương
có người để lại nắm
xương trên rừng...
o
Mái chèo nay lỏng mối
thừng
đò ngang áp mạn tựa
lưng bên cầu
thày, cô đã bạc trắng
đầu
học trò tóc cũng hoa
lau cả rồi
cay sè mắt mặn chát
môi
gộc tre cháy đượm sắn
vùi dưới tro
nửa vui hội ngộ thày
trò
nửa buồn, ngày xửa
tháng xưa đâu rồi !...
Tháng 5 - 1998
16. tiếng
đêm
Quán trọ vùng cao
sương lạnh vênh liếp
nứa
lang bang hồ lang
bang chợ lang bang rừng
cơm lam bản Thái phở
chua chợ Nùng
đom đóm lập lòe đồi
mận
trẻ khóc dạ đề rấm
rứt đêm
hoang dại điệu ru
buồn khê nồng ngái ngủ
lửa cháy cong đóm nứa
ông ké vẩy râu đẫm
rượu ho khan
những âm thanh từ lán
chợ vọng sang
tôi thảng thốt giật
tung cánh cửa
như tiếng khóc của
con ?
giống tiếng ho của bố
?
mai kia về nhà ở
phương Nam
tha hồ nghe con khóc
con cười
bố mẹ từ lâu về Đất
về Trời
nhiều đêm trở lạnh
tôi áp tai vào đêm
kiếm tìm trong gió...
Phố ga Bảo Hà - Yên Bái, 1998 (nơi
ngày 15 - 8 - 1908 Ba của tôi ra đời)
17.
ngậm ngùi
Người người náo nức
về quê
miến măng giỏ trước cau
chè bị sau
rưng rưng
hút mắt
con tàu
mình còn cha mẹ nữa
đâu mà về !
18. Hải
Vân tây
Hải Vân rừng bên này
Hải Vân biển bên kia
những toa tàu nghiêng
phía Hải Vân đông
khách say mê ngắm
biển
núi xanh thẳm bạt ngàn
hoa sim tím
được mấy người còn
nhớ Hải Vân tây !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét