Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

TẬP THƠ "TÊN RƠI TRƯỚC MẶT": (phần I, bài 01 - bài 09)

Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân, 2007
1/ Không thể, 2/ Trận giả trận thật, 3/ Ảnh thờ, 4/ Chị tôi, 5/ Kỉ niệm ở rừng, 
6/ Mây trắng,7/ Bạch Tuyết ở Trường Sơn, 8/ Biên thùy, 9/ Hỏi giá trước, 
10/ Kẻ hủy diệt, 11/ Một thời cổ tích,12/ Đừng quên, 13/ Xứ Bắc, 14/ Chợ quê, 
15/ Trường huyện vùng chiêm, 16/  Tiếng đêm,17/ Ngậm ngùi, 
18/ Hải Vân Tây, 19/ Về Bắc, 20/ Bài thơ tình ở Hà Nội, 21/ Một nửa đi tìm,
22/ MùaThu gặp lại 23/ Từ giã chính mình, 24/ Dỗi hờn, 25/ Hai nhà, 
26/ Tin nhắn, 27/ Thơ vui tặng mình, 28/ Bèo, 29/ Vòng tròn vô định, 
30/ Tên rơi trước mặt, 31/ Độc thoại,32/ Nói thầm, 33/ Oan khiên, 
34/ “Nhà tình nghĩa”, 35/ Ngựa tàu cau, 36/ Ba mươi sáu chữ, 
37/ Nuốt lời xin lỗi, 38/ Gặp nấm mộ người cùng quê ở Tây Nguyên, 
39/ Mả tù, 40/ Hoa Quỳnh, 41/ Nghệ Sĩ, 42/ Buồn vui, 43/ Thời gian, 
44/ Bạn thơ nghèo, 45/ Thơ & người làm thơ 

1. không thể

 - Ai chẳng thế...
 - Nhưng tôi không thế !...

 chỉ vì mình không thể như ai

2. trận giả trận thật

Tàu chuối làm kiếm
bẹ dừa uốn cung tên
chia phe địch phe ta mải mê chơi trận giả
bãi sông hoá chiến trường
trâu bò thành chiến mã

sau những trận đánh
mấy đứa tử trận nhỏm dậy toét miệng cười
bên thua làm ngựa bên thắng nhong nhong cưỡi
cùng mở tiệc khao quân
cua nướng, ổi xanh chấm muối…

                              O

Một thời chiến tranh mấy thời thiếu đói
sau bữa ăn bọn trửe vẫn thèm cơm
mười bảy tuổi hành quân dọc Trường Sơn
dép rộng rút quai, quần dài xén ống
những người lính vừa đi vừa lớn…

ngày nào chơi trận giả
                          bây giờ đánh trận thật
lựu đạn gang lạnh toát - không là bưởi rụng
súng AK thay khúc tre non
xưa choảng nhau bằng gốc rạ vốc bùn
những viên đạn gioè xé tan lồng ngực
mảnh bom găm đứt ruột
mìn cóc phạt gãy chân
mực mồng tơi vương vạt áo học trò
máu nóng đỏ ướt đầm áo lính

ngày nào ham chơi trận giả
mẹ cha quát mắng đét roi
đánh trận thật, những người con chết thật
mẹ cha khóc dập khóc vùi
chiến tranh không phải trò chơi con trẻ !

3. ảnh thờ

Những năm sáu mươi
người quê tôi chưa mấy ai chụp ảnh
khai sinh ở nhà khai tử ra đồng
người chết yên mộ người sống yên lòng

cuống nhau mục cùng nồi đất
núm rốn khô trong ống tre
bao trai làng ra trận không về
viết mấy hàng bia đắp hờ nấm mộ
chọn Rằm tháng Bảy làm giỗ
người hoạ sĩ già lang bạt khắp xóm quê
dựng ảnh thờ liệt sĩ
rượu cạn đáy chai
nhập thần
vung bút vẽ

những liệt sĩ từ vô định bước ra
khuôn mặt khắc khổ như cha
đôi mắt lo toan giống mẹ
vầng trán dô của chị
cái miệng vễ theo miệng em trai…
các anh hiện dần vóc dáng hình hài
trở về từ chân mây góc biến

người hoạ sĩ thả rơi bút vẽ
bức ảnh thờ hoàn thành
lúc bố ôm ngực thở dốc khô khan
mẹ nức nở gọi tên con lạc giọng…

SG, 2005

4. chị tôi

Sáng đi chợ Tết tối lên chùa
áo vừa cắn chỉ tóc đương khô
cơm canh đã nguội trên bàn cúng
chị ngồi như đá đợi giao thừa

mèo cuộn trong lòng cún dưới chân
gió đêm chớm lạnh bếp nguội dần
cành đào hết nụ hoa bung cánh
bấm tay đếm ngược những mùa xuân

Cái thời chanh cốm ở Trường Sơn
chị tôi đằm thắm nhất cung đường
khiến núi si mê rừng ngây dại
lấy hết dung nhan chiếm sắc hương

một bàn một ghế một chăn đơn
nắng vênh cánh cửa gió lệch giường
quanh năm đã vắng xuân càng vắng
chẳng dám ngôig lâu trước tấm gương

bói Kiều mùng một Tết dược may
 tre nổi chồi măng én gặp bầy
quà xuân mừng chị tranh em bé
chị ôm tờ giấy chợt run tay.
                                  
Tháng 1 - 1999

5. kỉ niệm ở rừng

Thưở ấy ở rừng
em như cây trúc xinh chưa đủ lá cành
anh thật thà như khoai chiêm đầu vụ
mười bảy tuổi
áo con gái con trai cùng màu cỏ úa
khôn lớn với rừng xanh thương nhau ở rừng xanh
nụ hôn lính nồng nàn vụng dại
chưa quen hát tình ca
thuộc làu khúc quân hành

cách nửa vạt rừng suốt mùa khô không gặp
em sạp nứa nhà hầm anh mắc võng rừng lim
Trường Sơn ngày bọn giặc trời quấy đảo
bộ đội Đường mòn làm chủ Trường Sơn đêm

những cô gái hao hao vóc dáng em
mặt nhoà bụi đất khói bom
mờ ảo đêm đêm lưng thon áo trắng
bên vách núi bên hút sâu vực thẳm
các em như bày tiên áo trắng dẫn xe nhích bánh qua cầu
ánh trăng muộn xuyên tán rừng săng lẻ
mờ đục ánh đèn gầm chẳng dễ nhận nhau

những chiếc xe ba cầu tránh đạn cháy trơ khung sắt
bom hơi thổi bay nóc hầm
bom khoan xuyên mặt đường nổ thầm trong đất
sức vóc như các anh còn vẹo siêu sau cơn sốt rét
bao cô gái mềm yếu như em nằm lại khắp rừng
mưa mục gỗ bia lũ mxoá mộ phần

                                              O

Chỉ những nụ hôn lính nồng nàn vụng dại rồi xa
xa mãi…
hết chiến tranh anh về quê em
buồng cau cột nhiễu điều hũ rượu trùm lụa đỏ
tìm mẹ cha nhận quê nhận họ
cha mẹ vợi bớt nỗi đau trong lòng
con gái bạc phận đã có người nhận làm chồng

cha chèo thuyền đưa anh ngược sông Cầu mùa lũ
sách vở học trò
áo khăn em một thời thiếu nữ
chìm vào nước sông…

1999 - 2006

6. mây bạc

Trường Sơn một thời không thể nào quên
những binh đoàn sống dưới rừng hoang
xa Trời gần Đất
ngủ đứng ngủ treo
lính trẻ lưng còng dáng lệch
mười chín, hai mươi tóc đã trắng đầu

cô gái thanh niên xung phong tóc rụng da nhàu
những năm ở rừng bàn tay không ai nắm
nhìn bầy vượn bế con gạt thầm nước mắt
đêm đêm dây võng xoắn đứt vỏ cây
chuyền nhau lược gãy soi chung gương rạn
tuổi xuân mòn vẹt mỗi ngày

thức ăn gắp trước canh nhạt chan sau
mặc áo mới mỗi khi lên sạp nứa
chẳng thể tránh thứ bom toạ độ
thường rơi bất thần giữa giấc ngủ bữa ăn

mảnh bom phạt ngang
rắn độc quấn chân
chất độc da cam ngấm vào cây cỏ
xe chạy thâu đêm
đường mòn thành đại lộ
đồng đội tôi sống chết bám đường
giữ xương sống Trường Sơn
khơi huyết mạch Trường Sơn

O

Rừng trụi lá mầm non lại mọc
những hố bom năm tháng sẽ lấp đầy
hai chục ngàn lính Trường Sơn ngã xuống
núi rừng mềm đá lệch cây

đom đóm chập chờn bay như sao rụng đầy trời
chim đa đa nhớ nhà hót thâu đêm trăng sáng
những loài phong lan lạ chưa có tên
lặng lẽ nở lặng lẽ tàn
đợi Mùng Một ngày Rằm mỗi tháng

con đường huyền thoại Trường Sơn
năm tháng nắng mưa xoá dần dấu vết
hai chục ngàn linh hồn bất diệt
 - Lá Xanh ngang cây
                                Mây Bạc lưng trời…

7. Bạch Tuyết ở Trường Sơn

Mười sáu tuổi em sống với rừng
áo thanh niên xung phong rộng như đi mượn
em thành Bạch Tuyết ở Trường Sơn
vá may múa hát nấu cơm
các chị các anh sốt rét trọc đầu
dành cho em chùm hạt dẻ ít gai
mảnh tổ ong lắm mật
xếp em ngủ ở góc hang đẹp nhất
tóc em vẫn đen dài
mọi người nhìn vơi mệt nhọc
mụ phù thuỷ trong cổ tích cưỡi chổi
                             giờ ngồi máy bay
hoàng hậu mẹ ghẻ nông cạn
bọn giặc lái cao tay
quả táo tẩm thuốc độc lộ rồi
          thay bằng bom bi ổi dứa
chiếc lược ma không hại được em
hoá thành đạn hai mươi li, tên lửa

khúc suối vắng giữa vạt rừng săng lẻ
nước trong ngầm chảy giữa tán cây xanh
em tiên nữ tắm trần huyền thoại
gió ngẩn ngơ quên lay động lá cành

suối đổi dòng sau chùm bom toạ độ
đá thành vôi cây cháy thành than
tìm em sàng đất tìm em lọc nước
những mảng tóc dính da sợi cháy quăn
                                  sợi còn đen mượt

nhẹ bẫng cánh võng rát bỏng đòn khiêng
lèn vào mộ thật nhiều hoa
bồ kết dại bưởi rừng nước mắt…
chiếc quan tài nhỏ như hộp thư bưu điện!

đất nước yên bình đồng đội sẽ thay hoàng tử đón em
bảy chú Lùn hiện ra từ cổ tích
nhập vào đoàn quân đi dọc Trường Sơn…

SG, 1999

8. biên thùy

Mấy năm chốt đỉnh núi cao
bữa nay làm lễ “hạ sao” trở về
quê hương từ buổi ra đi
nào ai dám chắc ngày về hôm nay

bạn tôi người rụng cánh tay
người mòn cặp mắt nhìn ngày ra đêm
người còn để lại dòng tên
bát ăn thành bát nhang trên đỉnh gò

tay còn loang mực học trò
vẫn hằn vết tím sừng bò sau lưng
thương cha nhớ mẹ rưng rưng
bao người nằm lại núi rừng biên cương

gió Đông - Bắc giật từng cơn
bây giờ giá buốt còn hơn thuở nào
chập trùng rừng thẳm núi cao
xương trắng bạc núi, máu đào nhợt cây

đã từng bùi ngọt đắng cay
đã từng cởi áo tháo dày nhường nhau
hết thương dấp lối dỡ cầu
sao đành xả đạn vào nhau hả người!

ngày xưa binh lửa tàn rồi
dân nào nước ấy sách Trời đã phân
gái Nam trai Bắc kết thân
bền lầu Đồng Tước vững chân âu vàng

hiếu hoà nước thịnh dân an
đã toàn quốc thể lại tan quốc thù
vàng sao
        đỏ một sắc cờ
khi nao mới hết hận thù
khi nao ?...

Biên giới phía Bắc, đầu Thập kỷ Tám mươi

9. hỏi giá trước
Tặng những nhà thơ mặc áo lính cùng thời

Giải phóng Sàigòn chúng mình chưa tam thập
những nhà văn trung uý trẻ căng súng ngắn xệ hông
trước khi ăn hỏi giá, nước máy rót bi đông
nghèo quá thể nên thương nhau hết dạ

buồn khi chưa tên tuổi, buồn cả khi danh giá
ngày vỗ tay rào rào, đêm mới thật cô đơn
biết thế nào là thiệt là hơn
kiếp thi sĩ giời đầy đau nhiều vui được mấy

vẫn cứ làm thơ, ngắn dài nhiều ít
tạ ơn đời cho ít chữ dắt lưng
xa cách ngàn cây số mây năm mới gặp nhau
xem thơ biết buồn vui ấm lạnh…

kỷ niệm đại thắng mùa xuân này ta xấp xỉ sáu mươi
kỷ niệm năm mươi năm - nghấp nghé tám chục rồi
cầu giời máy bay đừng chết máy trên mây
tàu đừng trật đường ray thuyền dọc đò ngang đừng đắm
không bị ung thư liệt tim chảy máu não
để còn làm thơ thêm mấy chục năm
để chống gậy đi xem duyệt binh kỷ niệm giải phóng
  miền Nam lần thứ bảy mươi lần thứ một trăm

râu dài bạc phơ ướt đẫm nước phở, rượu bia
ta đánh chén mừng thọ nhau không cần hỏi giá trước…

Sài Gòn, Rằm tháng Giêng năm Đinh hợi - 2007

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét