Hành quân đến đâu
đánh trận ở đâu ngã xuống ở đâu
chúng mình không chọn
lựa
bản thảo rơi vãi sau
mỗi trận bom
yên bình
những người lính làm
thơ chỉ biết làm thơ
làm chồng
làm bố
người lên trung du kẻ
ra vùng mỏ
bạn cư ngụ Huế
tôi dạt vào Nam.
Thương nhớ khôn nguôi
xứ Bắc cội rễ bao đời
những mảnh đồng nát
hằn vết móng tay cậy cháy cơm khoai
chiếc niêu đất đựng
núm rốn cuống nhau
cha vùi gốc tre gai
những cánh diều chưa
nhả hết dây
toạc giấy gẫy
tre chòng chành ngược gió…
Dạ cổ hoài lang, Nam
ai, Nam bằng
buồn như Ví dặm
ngậm ngùi Bèo dạt mây
trôi
nhớ Bắc tôi tựa gốc
sầu riêng
bạn ngồi mòn gốc đa
thương Huế
văn liền mạch câu thơ
nối nhịp
phương Nam phương Bắc
nóng lạnh chẳng cùng mùa
kẻ trước người sau
bạn về Bắc
tôi làm sao xa lìa
sông Đáy sông Châu đất lề quê thói !
Mai này
thỏa thuê gió bấc mưa
phùn mắm cua nước vối
có những đêm áo nhàu
khuy đứt
quặn lòng thắt dạ
nhớ thương nắng gió
phương Nam…
14.
chợ quê
Phố nhỏ chợ phiên
càng nhỏ
lối đi hằn vết móng trâu
lều quán tuềnh toàng
xiêu vẹo
thúng mủng quang gánh
vướng nhau
cải ngồng rễ chùm lấm
đất
tép riu tanh tách
trên sàng
lúa giống ao bằng đấu
gỗ
lá xoè vấn vít cuống
cam
có ông bán mâm đồng
cũ
có bà dắt nghé còn
tơ
chục quả trứng ngan
trên mẹt
dăm nải chuối ngự
trong bồ
cá mè lềnh phềnh
trong “ thúng “
thịt lợn “ say sắn “
vàng khè
đường mía “ lò trâu “
đen kịt
vải diềm bâu dệt cửi
tre
tiền cũ dằn sâu đáy
túi
bạc trăm cuộn giữa
bạc nghìn
mặc cả gọi là - thuận
miệng
chợ
quê ai cũng quen quen
họp nhanh chợ rã càng
nhanh
người bán người mua
lặng lẽ
phản thịt miếng ngon
thường ế
hàng sáo chỉ thừa gạo
thơm
người già ngồi nhai
cơm nắm
mấy cô cắm cúi vá
tiền
rượu ngô rót tràn
chén mộc
vuốt râu cười chếnh
choáng men
chiều xuống trời hun
hút gió
chợ tan mưa bụi trắng
đầu
trẻ con dắt nhau ra
ngõ
đợi bánh đa vừng mía
lau...
Hà
Nam, 1997/ SG, 10-1998
15.
trường huyện vùng chiêm
Nhớ
về Trường Cấp III Bình Lục ở thập kỉ sáu mươi, thế kỉ hai mươi
Quê ta đất mỏng nước
dày
đi chân thì ít bơi
tay lại nhiều
chiêm mùa hạt thóc
tong teo
cỏ năn bện chổi tre
pheo vặn thừng
đất cằn thấp cải lép
vừng
bùn non trát vách rạ
thưng lợp nhà
cứ gì tháng tám ngày
ba
- cơm khoai lửng dạ,
mắm cà quanh năm
bạn tôi áo cộc quần
thâm
lội đồng đi học nước
dầm áo tơi
tan trường, đứng bóng
mặt trời
lại cày cuốc, nhọ mặt
người chưa xong
giêng hai lúa đã hé
đòng
tôi từ Yên Đổ lội
sông tìm người
trăng non vàng nõn cỏ
tươi
cầm tay nhau, dại cả
mười ngón tay ...
đạn bom đã nổ quanh
đây
tàu xe nườm nượp chở
đầy tân binh
bao nhiêu con gái
trường mình
lặng thầm lên phố
chụp hình, lựa khăn...
chiến trường xa mặt
trận gần
thày tái ngũ, trò
tòng quân, lên đường
vắng hoe , lệch nửa
sân trường
hầm tre quanh lớp, mũ
rơm bên người
bạn bè tứ tán nơi nơi
người dạt xuống biển
kẻ dời lên nương
có người biệt xứ tha
hương
có người để lại nắm
xương trên rừng...
o
Mái chèo nay lỏng mối
thừng
đò ngang áp mạn tựa
lưng bên cầu
thày, cô đã bạc trắng
đầu
học trò tóc cũng hoa
lau cả rồi
cay sè mắt mặn chát
môi
gộc tre cháy đượm sắn
vùi dưới tro
nửa vui hội ngộ thày
trò
nửa buồn, ngày xửa
tháng xưa đâu rồi !...
Tháng
5 - 1998
16.
tiếng đêm
Quán trọ vùng cao
sương lạnh vênh liếp
nứa
lang bang hồ lang
bang chợ lang bang rừng
cơm lam bản Thái phở
chua chợ Nùng
đom đóm lập lòe đồi
mận
trẻ khóc dạ đề rấm
rứt đêm
hoang dại điệu ru
buồn
khê nồng ngái ngủ
lửa cháy cong đóm nứa
ông ké vẩy râu đẫm
rượu ho khan
những âm thanh từ lán
chợ vọng sang
tôi thảng thốt giật
tung cánh cửa
như tiếng khóc của
con ?
giống tiếng ho của bố
?
mai kia về nhà ở
phương Nam
tha hồ nghe con khóc
con cười
bố mẹ từ lâu về Đất
về Trời
nhiều đêm trở lạnh
tôi áp tai vào đêm
kiếm tìm trong gió...
Phố
ga Bảo Hà (nơi ngày 15 - 8 - 1908 Ba của tôi ra đời), Yên Bái, 1998
17.
ngậm ngùi
Người người náo nức
về quê
miến măng giỏ trước
cau chè bị sau
rưng rưng
hút mắt
con tàu
mình còn cha mẹ nữa
đâu mà về !
18.
Hải Vân tây
Hải Vân rừng bên này
Hải Vân biển bên kia
những toa tàu nghiêng
phía Hải Vân đông
khách say mê ngắm
biển
núi xanh thẳm bạt
ngàn hoa sim tím
được mấy người còn
nhớ Hải Vân tây !
19.
về Bắc
Xa quê
đi đánh giặc
lại xa
quê làm ăn
góp
nhặt dăm bảy năm
ngược
đường về xứ Bắc
áo quạt
mãi chưa khô
xe đạp
không nơi mượn
trẻ
đông, tiền đâu quà
ngồi
xuông, không trà thuốc
ngày
nồi không đủ gạo
đêm đèn
vẫn thiếu dầu
khách
xa không giám giữ
họ mạc
cũng lảng nhau ...
giêng
hai rồi cơm mới
lần
lữa, đến mùa ngâu
tháng
mười e mưa bão
cạn năm
mới lên tàu
áo quần
mới, đủ bộ
chó vừa
bán, sẵn tiền
thơ dăm
bài dắt túi
thăm
thú bạn thân quen
người
là thày là bạn
người
đồng khóa đồng niên
người
muốn làm anh rể
ngừời,
đọc báo quen tên...
em gái
đi xuất khẩu
bạn,
cửu vạn buôn bò
thày
giáo thành Chúa Chổm
sau đận
xuất bản thơ
bám
ruộng cực đã đành
bỏ quê,
nghèo tại số
đất
nước có một thời
hình
như ai cũng khổ
xa quê
lòng thương nhớ
về
thăm, lòng thêm đau
phương
Bắc xa vời vợi
góp
nhặt tiền
lần sau…
SG, những năm đói kém đầu Thập kỉ Tám
mươi
20.
bài thơ tình ở Hà Nội
Những mùa thu xưa có
thổn thức vậy đâu
ta còn trẻ liễu quanh
hồ mới lớn
tháng ba ném bàng
tháng tư lựa cốm
bố mẹ chưa già chị
gái còn son
lạnh giá đến nao lòng
ngút ngát gió heo may
lá sấu rụng rối chân
mưa Ngâu mềm rễ cỏ
Hà Nội mấy ngàn đêm
thở dài thương nhớ
chiều nay như người
lạ tìm về
đến Ngọc Hà hỏi làng
ra Yên Phụ tìm đê
xóm Vẽ bến Chèm vắng
thuyền nan đò gỗ
đường Cổ Nhuế không
tãi rơm quạt lúa
xa nhau - ổi non khế xanh
gặp lại vẫn giữa mùa đang vụ
đằm ngọt nhãn lồng tròn đầy bưởi dọ
rượu cũ sủi tăm cốm mới ngậy hương
hẹn anh đi chợ Tó rủ em xuống Kẻ Mơ
trưa vào Bách Thảo tối lên Tây Hồ
một nửa ngậm ngùi
đắp bù cho nhau một nửa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét